Bùi Đức Giang*
(TBKTSG) - Bảo vệ bên thứ ba ngay tình trong các giao dịch được thừa nhận
rộng rãi trong các nền pháp luật tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, quy định về
vấn đề này trong Bộ luật Dân sự 2015 còn khá sơ lược, chưa thực sự tạo ra hành
lang pháp lý hiệu quả.
Xem thêm: Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
Xem thêm: Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
Khoản 2, điều 133, Bộ luật Dân sự
2015 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2017) quy định “trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được
chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người
này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó
không bị vô hiệu”.
Chẳng hạn, nếu hợp đồng mua bán
nhà bị tuyên vô hiệu nhưng quyền sở hữu nhà liên quan của người mua đã được
đăng ký hợp lệ và người mua sau đó bán lại nhà đó cho một người khác và người
này tin rằng người mua ban đầu là chủ sở hữu nhà được bán lại do có tên trên giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà khi mua lại thì giao dịch bán lại nhà không bị vô
hiệu.
Bộ luật Dân sự 2015 không đưa ra
định nghĩa chung về sự “ngay tình” (good faith) trong giao dịch, nhưng có thể
hiểu sự ngay tình chính là việc người thứ ba căn cứ vào việc tài sản đã được
đăng ký nên mới tin rằng người chuyển giao tài sản cho mình là người sử dụng
hay chủ sở hữu hợp pháp của tài sản, và do đó mới xác lập, thực hiện giao dịch.
Khó khăn liên quan đến việc áp dụng
quy định nêu trên trước hết chính là phải hiểu thuật ngữ “chuyển giao” như thế
nào cho đúng? Liệu việc đưa tài sản vào trong giao dịch thế chấp hay cầm cố có
được xem như là việc chuyển giao tài sản hay không?
Tại một số hội thảo giới thiệu những
điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, một số thành viên của ban soạn thảo khẳng định
việc thế chấp hay cầm cố tài sản là một trong những hình thức chuyển giao tài sản
theo nghĩa của quy định này.
Tuy nhiên, khẳng định này có vẻ
khá lạc điệu so với các quy định chung của chính Bộ luật Dân sự 2015 và của một
số pháp luật chuyên ngành. Trong Bộ luật Dân sự 2015, chuyển giao tài sản có thể
là chuyển giao về mặt vật lý - giao tài sản (điều 161, điều 259 hay điều 274), và
cũng có thể là chuyển giao về mặt pháp lý. Nếu xét trong bối cảnh của quy định
này thì có thể hiểu việc chuyển giao nêu trên dường như mang nghĩa về mặt pháp
lý. Tuy vậy, khi chuyển giao tài sản về mặt pháp lý thì tinh thần chung của Bộ
luật Dân sự 2015 lại mang nghĩa là việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản thông
qua hợp đồng mua bán (chuyển nhượng), trao đổi, tặng cho, cho vay, hợp đồng
chuyển quyền sở hữu khác hoặc thông qua việc để thừa kế (điều 238, điều
365...).
Về điểm này, điểm d, khoản 2, điều
106, Luật Đất đai quy định Nhà nước thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đã cấp không đúng thẩm quyền,
không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện
được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn
gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được
cấp giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai. Khoản 10, điều 3, Luật
Đất đai nêu rõ chuyển quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ
người này sang người khác thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa
kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nói cách
khác, việc chuyển giao tài sản về mặt pháp lý theo Bộ luật Dân sự cũng như pháp
luật đất đai dường như chỉ mang nghĩa là chuyển quyền sở hữu tài sản mà thôi.
Dễ thấy hệ quả là khó có thể coi
việc cầm cố hay thế chấp tài sản là việc chuyển giao tài sản để ngân hàng nhận
cầm cố hay thế chấp có thể hưởng lợi từ quy định bảo vệ bên thứ ba ngay tình
trong trường hợp giao dịch liên quan đến tài sản được cầm cố hay thế chấp được
xác lập trước đó bị vô hiệu. Đây là điều đáng tiếc, bởi theo nguyên tắc thông
thường, quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình được thiết kế không chỉ nhằm bảo
vệ bên mua ngay tình (bona fide purchaser), mà cả bên nhận bảo đảm ngay tình! Mặc
dù Bộ luật Dân sự 2015 chưa có hiệu lực nhưng giới ngân hàng bắt đầu bày tỏ sự
tiếc nuối rằng đáng lẽ cụm từ “được chuyển giao bằng” phải được thay bằng “là đối
tượng của”. Như thế quy định mới về bảo vệ bên thứ ba ngay tình mới thực sự có
ý nghĩa.
Hiện nay Bộ Tư pháp đang dự thảo
nghị định hướng dẫn phần quy định về giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự
2015. Một số ý kiến cho rằng nghị định này có thể công nhận việc chuyển giao
tài sản trong khoản 2, điều 133 bao gồm cả việc cầm cố hay thế chấp tài sản.
Nhưng liệu như thế có trái luật và nếu phát sinh tranh chấp, liệu cách tiếp cận
này có được tòa án chấp nhận?
Cần lưu ý, cũng theo khoản 2, điều
133, Bộ luật Dân sự 2015, nếu tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu,
trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu
giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể
này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Về việc bảo vệ quyền của bên có
quyền với tài sản là đối tượng của giao dịch bị vô hiệu, khoản 3, điều 133, Bộ
luật Dân sự 2015 quy định: “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người
thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu [...]
nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được
xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt
hại”. Hạn chế của quy định này nằm ở chỗ khái niệm “chủ sở hữu” tài sản nêu ở
đây chỉ hướng đến các tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong khi một tài sản
quan trọng được đăng ký mà điều 133 hướng đến là quyền sử dụng đất. Tuy vậy, có
thể hiểu tinh thần chung của điều luật này là chủ sở hữu hay chủ thể có quyền
khác (quyền sử dụng) đối với tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự ban đầu
bị tuyên vô hiệu chỉ có thể yêu cầu hay khởi kiện bên kia của hợp đồng là bên
đã xác lập giao dịch với người thứ ba để yêu cầu bồi thường thiệt hại và hoàn
trả các chi phí hợp lý khác đã bỏ ra trong việc thực hiện các quyền của mình.
(*) Tiến sĩ, Đại học
Paris 2, Pháp