Giải quyết như thế
nào trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời (“ADBPKCTT”) nhưng Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không xem xét
hoặc chậm xem xét giải quyết đơn?
Theo khoản 02, khoản 03 Điều 133 Bộ luật Tố Tụng Dân Sự
năm 2015 (“BLTTDS”) quy định thủ tục
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:
“Điều 133. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời
[…] 2. Yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 111
của Bộ luật này được giải quyết như sau:
a) Trường hợp Tòa
án nhận đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc
ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của
Bộ luật này thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và
nêu rõ lý do cho người yêu cầu;
b) Trường hợp Hội
đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa
thì Hội đồng xét xử xem xét, thảo luận, giải quyết tại phòng xử án. Nếu chấp nhận
thì Hội đồng xét xử ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc
sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136
của Bộ luật này. […]
3. Đối với trường
hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của
Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ
kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn
yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm
phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu
không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý
do cho người yêu cầu biết.”
Theo
quy định trên, thời hạn để thẩm phán ra giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên tòa là 03 ngày kể từ ngày nhận đơn. Trong
trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu tại phiên tòa thì xem xét giải quyết tại
phiên tòa hoặc sau khi người yêu cầu thực hiện xong biện pháp bảo đảm. Đối với
trường hợp tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả
nghiêm trọng có thể xảy ra thì thời hạn giải quyết là trong vòng 48 giờ kể từ
thời điểm Tòa án nhận đơn.
Trong trường hợp đương sự đã có đơn yêu
cầu ADBPKCTT nhưng thẩm phán vẫn không ra quyết định ADBPKCTT thì theo quy định
tại Điều 140 Bộ luật Tố tụng dân Sự 2015 đương sự có quyền gửi đơn khiếu nại
đến Chánh án tòa án đang giải quyết vụ án. Cụ thể:
“Điều 140. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Đương sự có quyền
khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết
vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc
việc Thẩm phán không quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả
lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời”.
Đồng thời khoản 01 Điều 499 BLTTDS
quy định đương sự trong vụ án có quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong tố tụng
dân sự, cụ thể:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
khiếu nại quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự của cơ quan, người tiến hành
tố tụng dân sự khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. […]”.
Như vậy, đương sự có quyền khiếu nại khi có căn cứ cho
rằng hành vi không giải quyết hoặc chậm giải quyết đơn yêu cầu ADBPKCTT của thẩm
phán. Thủ tục khiếu nại quy định cụ thể tại Chương XLI BLTTDS 2015.
Luật gia Võ Văn Tú