I. Khởi
kiện lại vụ án
Người
khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 168 và các điểm c, e, g
khoản 1 Điều 192 của BLTTDS và các văn bản pháp luật có quy định. Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong
các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện có quyền khởi kiện hoặc đã đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi
mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản,
thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho
mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó
Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp
luật.
"Các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật” là các trường hợp trong
BLTTDS chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế
mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ví
dụ 1: Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ thành theo quy định
tại Điều 88 của Luật Hôn nhân và Gia đình và đã
ra quyết định công nhận sự thỏa thuận về việc hòa giải đoàn tụ thành giữa các
đương sự. Trong thời gian đoàn tụ, các đương sự lại phát sinh mâu thuẫn và có
đơn xin ly hôn yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án căn cứ vào Điều 85 của Luật Hôn nhân và Gia đình để thụ lý, giải
quyết theo thủ tục chung.
Ví
dụ 2: Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng xin ly hôn vợ
đang có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý
lại vụ án xin ly hôn của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy
định tại khoản 2 Điều 85 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
-Điều 168 BLTTDS; Điều 8 NQ 05/2012/NQ-HĐTP.
II. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
Khi nhận đơn khởi kiện hoặc sau khi nhận đơn
khởi kiện, xét thấy đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 của
BLTTDS, thì tuỳ theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà Toà án yêu cầu
người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong một thời hạn do Toà án ấn
định, nhưng không quá ba mươi ngày, kể từ ngày người khởi kiện nhận được văn bản
của Toà án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Trong trường hợp đặc biệt,
Toà án có thể gia hạn thêm, nhưng không quá mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc
thời hạn do Toà án ấn định nêu trên.
Yêu cầu sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện phải được làm bằng văn bản, trong đó phải nêu rõ những vấn
đề cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện biết để họ thực hiện. Văn bản này
có thể được giao trực tiếp hoặc gửi cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc giao
hoặc gửi này phải có sổ theo dõi.
Thời gian thực hiện
việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện. Ngày
khởi kiện vẫn được xác định là ngày nộp đơn khởi kiện, nếu người khởi kiện nộp
trực tiếp tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi, nếu đơn khởi kiện được
gửi qua bưu điện.
Sau khi người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của
Toà án, thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án theo thủ tục chung quy định tại Điều 171 của BLTTDS.
Nếu hết thời hạn do Toà án ấn định mà người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung
theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của
BLTTDS trả lại đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ.
Trường hợp trong đơn
khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị
kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án yêu
cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án
căn cứ vào khoản
2 Điều 169 của BLTTDS trả lại
đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không được thụ lý vụ án.
Việc Toà án thụ lý vụ án để sau đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
với lý do “chưa tìm được địa chỉ của bị đơn” là không đúng quy định của BLTTDS,
vì đây không phải là một trong những trường hợp Toà án ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án quy định tại Điều 189 của BLTTDS. Toà án cũng không được tự mình tiến hành
thông báo tìm người bị kiện, vì đây là nghĩa vụ của đương sự.
Đối với trường hợp
trong đơn khởi kiện người khởi kiện có ghi đầy đủ cụ thể và đúng địa chỉ của
người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định
tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS, hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị
quyết này và Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết này nhưng họ không có nơi cư trú ổn
định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho người
khởi kiện, cho Toà án, nhằm mục đích giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với
người khởi kiện, thì được coi là trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ. Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ
án theo thủ tục chung.
Nếu người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để ghi trong đơn khởi kiện, thì họ
phải thực hiện việc tìm địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
- Điều 169 BLTTDS; Điều 9 NQ 05/2012/NQ-HĐTP.
III. Trả
lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong
trường hợp đã có Tòa án nước ngoài giải quyết
1. Tòa án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong
trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài giải quyết vụ việc
dân sự đó và nước có Tòa án ra bản án, quyết định dân sự đó và Việt Nam đã ký
kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế quy định việc công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự.
2. Tòa án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu có Tòa
án nước ngoài đã thụ lý vụ việc dân sự đó và bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài về vụ việc dân sự đó được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
-Điều 413 BLTTDS
IV. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại,
kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Tòa án trả lại, người
khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền
kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
2. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án
phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
3. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi
kiện của Chánh án Tòa án, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có
quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp Xem Xét, giải quyết.
4. Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án
cấp trên trực tiếp phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của
Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng. Quyết định của
Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp phải được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện
kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả
lại đơn khởi kiện.
-Điều 170 BLTTDS
V. Thụ lý vụ án
1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo, nếu Xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa
án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục
nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Tòa án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi
vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp
tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong trường hợp
người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn mười lăm ngày vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan thì theo quy
định tại khoản 1
Điều 161 của Bộ luật dân sự năm 2005, thời gian có sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí.
Tòa án phải ấn định
cho người khởi kiện trong thời hạn bảy ngày, sau khi hết thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí,
người khởi kiện phải nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời
hạn này người khởi kiện mới nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, thì
giải quyết như sau:
a) Trường hợp chưa trả lại đơn khởi kiện, thì Thẩm phán tiến hành thụ lý vụ
án;
b) Trường hợp đã trả
lại đơn khởi kiện mà người khởi kiện chứng minh được là họ đã nộp tiền tạm ứng
án phí đúng thời hạn quy định, nhưng vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan nên họ nộp biên
lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án không đúng hạn, thì Thẩm phán yêu cầu họ
nộp lại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và tiến hành thụ lý vụ
án theo thủ tục chung.
c) Trường hợp sau khi
Toà án trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện mới nộp tiền tạm ứng án phí và
nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án, nếu không vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan thì
được coi là nộp đơn khởi kiện lại, Thẩm phán yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện,
các tài liệu, chứng cứ kèm theo và tiến hành thụ lý lại vụ án theo thủ tục
chung.
Hết thời hạn trên,
người khởi kiện không nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà
án thông báo cho họ biết về việc không thụ lý vụ án với lý do là họ không nộp
tiền tạm ứng án phí.
3. Tòa án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp
cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn
hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì Tòa án phải thụ lý vụ án
khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
-Điều 171 BLTTDS; Điều 10 Điều 9 NQ 05/2012/NQ-HĐTP.
Luật gia Võ Văn Tú