(Quyết định giám đốc thẩm số 03/2008/DS-GĐT ngày
08-01-2008 của Toà Dân sự TANDTC tại Tp. Hồ Chí Minh)
1/. Nội dung
vụ án:
(Tranh chấp đất trồng đước, ảnh minh họa)
Nguyên đơn Họ Đạo Cao Đài Thánh Thất Thôn TH, xã TT,
huyện CG, thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Họ Đạo) trình bày:
Ngày 21-10-1991, Họ Đạo được UBND huyện DH (nay là huyện
CG) cấp diện tích 129.882m2 đất (gồm 3 thửa tọa lạc tại tờ bản đồ số 15, xã TT)
để sản xuất. Cũng trong thời gian đó, vợ chồng ông Trần Văn B, bà Phạm Thị T
cũng được cấp diện tích 157.644 m2 đất lâm nghiệp, gồm 8 thửa tọa lạc tại tờ bản
đồ số 15, xã TT.
Năm 1992, Họ Đạo quyết định trồng đước trên diện tích
đất được giao nhưng đất đã bị ông B, bà T lấn chiếm trồng đước trên diện tích đất
này. Họ Đạo yêu cầu ông B, bà T trả lại đất nhưng không được chấp nhận.
Ngày 26-01-2005, Họ Đạo khởi kiện tại Tòa án yêu cầu
ông B, bà T trả lại đất (thực tế đất đã bị Nhà nước thu hồi và được bồi thường,
trong đó Họ Đạo đã nhận 114.296.160 đồng). Trong đơn khởi kiện bổ sung, Họ Đạo
yêu cầu ông B, bà T trả lại đất và tiền ăn chia cây đước trồng trên đất. Sau đó
tại biên bản hòa giải không thành, Họ Đạo yêu cầu ông B, bà T trả lại toàn bộ số
tiền đền bù đất là 571.480.000 đồng và 50% tiền huê lợi cây trồng trên đất là
428.617.000 đồng.
Bị đơn ông B, bà T trình bày: Năm 1991 ông, bà được
UBND huyện DH cấp diện tích 157.644m2 đất lâm nghiệp. Sau khi nhận đất, ông bà
đã khai hoang trồng đước và được UBND xã và Hạt kiểm lâm cho phép. Năm 2002,
Nhà nước có chủ trương kê khai, thu hồi lại đất rừng ở khu rừng ngập nước để
làm khu sinh thái, gia đình ông bà đã trả lại 129.882m2 đất và được đền bù tổng
cộng 1.428.700.800 đồng (trong đó tiền đất là 571.480.000 đồng và tiền cây đước
là 857.220.000 đồng). Ông bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện nêu trên của Họ
Đạo.
2/. Quá
trình giải quyết vụ án:
Tại Bản án sơ thẩm số 1498/DSST ngày 19-7-2005, TAND
TP.HCM đã quyết định: Họ Đạo được quyền sở hữu toàn bộ khoản tiền đền bù
129.882 m2 đất, trị giá 571.480.800 đồng; ông B, bà T phải thanh toán trả lại
tiền đền bù cây đước cho Họ Đạo là 373.676.408 đồng.
Ngày 28-7-2005, ông B, bà T kháng cáo. Tại Bản án phúc
thẩm số 419/DSPT ngày 27-10-2005, Toà phúc thẩm TANDTC TP.HCM đã giữ nguyên quyết
định của án sơ thẩm.
Ngày 02-12-2005, ông B, bà T có đơn khiếu nại. Ngày
22-10-2007, Chánh án TANDTC có Quyết định số 209/2007/KN-DS kháng nghị bản án
phúc thẩm nêu trên với lý do: cần làm rõ Họ Đạo có biết hay không biết thỏa thuận
đền bù đất và cây; xác minh rõ Họ Đạo có biết hay không biết việc ông B, bà T
trồng cây đước trên đất của Họ Đạo; cần xác định vụ án là tranh chấp quyền sở hữu
tài sản. Từ đó đề nghị huỷ bản án phúc thẩm; giao hồ sơ vụ án cho TAND TP.HCM
xét xử phúc thẩm lại.
3/. Nhận
xét:
Hội đồng giám đốc thẩm nhận cho rằng trong vụ án này cả
hai cấp Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đều mắc chung một sai lầm: Họ Đạo và vợ chồng
ông B, bà T tranh chấp về số tiền đền bù đất và cây nên quan hệ pháp luật trong
vụ án này là tranh chấp quyền sở hữu tài sản (tiền đền bù đất, cây). Tòa án các
cấp xác định quan hệ pháp luật là “Chiếm dụng quyền lợi đất và tài sản trên đất”
là chưa đúng.
Họ Đạo với vợ chồng ông B, bà T có tranh chấp về số tiền
bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất và cây nên cần phải xác minh làm rõ lại
thoả thuận, phương án đền bù đất, cây đã xác lập trước đó giữa Hội đồng đền bù
giải phóng mặt bằng với Họ Đạo và ông B, bà T.
- Nếu các bên đều biết thoả thuận này và phương án đền
bù được làm công khai, được niêm yết đầy đủ và UBND thành phố Hồ Chí Minh đã có
Quyết định phê duyệt phương án đền bù thì tiền bồi thường của người nào người
đó được hưởng.
- Nếu các bên không biết thoả thuận này và Họ Đạo biết
vợ chồng ông B, bà T trồng đước trên đất của Họ Đạo nhưng không khiếu nại thì
không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của Họ Đạo đòi giá trị khai thác quyền sử dụng
đất để trồng cây.
- Trong trường hợp Họ Đạo biết ông B, bà T trồng đước
trên đất của Họ Đạo và có khiếu nại, tranh chấp từ khi mới trồng nhưng chưa được
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thì Họ Đạo cũng chỉ được hưởng giá trị
khai thác, sử dụng đất tương ứng với giá đất thuê (trong thời gian từ năm 1992
đến lúc Nhà nước thu hồi đất) tại địa phương, nhưng không thể cho hưởng 50% số
tiền bồi thường đước (sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý).
Do đó, Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy Bản án
phúc thẩm và Bản án sơ thẩm; Giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hồ Chí Minh để
xét xử sơ thẩm lại.