Pages

HOME

5/24/2013

DÂN CƯ TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ


Nguyên tắc quốc tịch

       I.                 Khái niệm và đặc điểm của quốc tịch
1.      Khái niệm
-         Quốc tịch là mối liên hệ pháp lý giữa một cá nhân với một quốc gia nhất định. Mối liên hệ này được biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người đó với quốc gia mà họ mang quốc tịch và tổng thể các quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với công dân của mình.
2.      Đặc điểm
-         Tính ổn định bền vững về không gian và thời gian:
+ Về thời gian: có quốc tịch từ khi sinh ra.
+ Về không gian: không giới hạn.
-         Quốc tịch là cơ sỏ để xác định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đối với nhà nước và ngược lại.
-         Tính cá nhân: Quốc tịch là yếu tố nhân thân gắn liền với cá nhân và sự thay đổi quốc tịch của người này không ảnh hưởng đến người khác.
   II.            Các cách thức xác định quốc tịch phổ biến
1.      Căn cứ xác định
-         Phải có sự kiện pháp lý làm phát sinh vấn đề xác định quốc tịch cho cá nhan đó.
-         Phải có quy định của pháp luật quốc gia làm căn cứ pháp lý cho việc xác định qốc tịch.
2.      Nguyên tắc xác định quốc tịch
-         Nguyên tắc một quốc tịch: Hầu hết, các nước trên thế giới đều theo nguyên tắc một quốc tịch như Trung Quốc, Hàn Quốc, Lào, Thái Lan, Nhật Bản, Nga, Đức… Nguyên tắc này được đảm bảo thực hiện bằng các quy định: người nước ngoài muốn nhập quốc tịch của các nước này thì phải từ bỏ quốc tịch gốc của mình, công dân các nước này nếu tự nguyện nhập quốc tịch nước ngoài sẽ đương nhiên mất quốc tịch gốc. Tuy nhiên, một số nước lại áp dụng nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo. Vì ngoài những trường hợp bắt buộc phải thôi quốc tịch, thì họ có thể được xem xét để giữ quốc tịch gốc của mình khi nhập quốc tịch nước ngoài.
Sở dĩ các nước áp dụng nguyên tắc một quốc tịch là vì nhiều nguyên do, trong đó có 1 số nguyên nhân sau:
+ Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Không một quốc gia độc lập và chủ quyền nào lại muốn công dân của mình đi thực hiện nghĩa vụ với một Nhà nước khác. Cùng với đó là để đảm bảo sự an toàn về mặt an ninh-chính trị.
+ Việc có nhiều quốc tịch, có thể làm cho công dân lợi dụng điều này để lựa chọn quốc tịch trong từng trường hợp nhất định nhằm khai thác quyền lợi tối đa mà Nhà nước áp dụng cho công dân trong nước và người nước ngoài.
-         Nguyên tắc hai quốc tịch: Thông thường mỗi người chỉ có một quốc tịch nhưng thực tế vẫn có những người có hai, thậm chí nhiều hơn nữa các quốc tịch. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì:
+ Xung đột giữa các nước về cách thức hưởng quốc tịch và mất quốc tịch.
+ Khi một người đã nhập quốc tịch mới nhưng chưa thôi quốc tịch cũ.
+Do kết hôn với người nước ngoài, được người nước ngoài nhận làm con nuôi.
-         Ở Việt Nam, điều này được thể chế hóa trong quy định của khoản 2, điều 13 Luật quốc tịch hoặc Điều 37 Luât Quốc tịch về con nuôi.
-          Như vậy, hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc có hai quốc tịch của hai nước. Tình trạng này rất phức tạp, liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau, đặc biệt là việc xác định và thực hiện các nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trên thực tế, người có nhiều quốc tịch khác nhau sẽ làm phát sinh tình trạng xung đột thẩm quyền về bảo hộ công dân, xác lập quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các vấn đề pháp lý liên quan khác.
-          Và để tránh tình trạng xung đột pháp luật giữa các nước, các nước thường áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Theo nguyên tắc này, những người có hai quốc tịch có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của một trong hai nước ký kết; những người có hai quốc tịch mà chưa lựa chọn được quốc tịch cho mình thì dựa vào thời gian người đó sinh sống ở đâu nhiều nhất hoặc thực tế gắn bó nhiều nhất để lấy quốc tịch.
3.      Cách hưởng quốc tịch
a.      Hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ
-         Nguyên tắc quyền huyết thống: Cha mẹ có quốc tịch  nước nào thì con sinh ra sẽ mang quốc tịch nước đó, bất kể đứa bé được sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ của quốc gia đó.
Áp dụng ở các nước châu Âu như Áo, TBN, Hà Lan, Italia, Na Uy, và châu Á là Lào, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Nguyên tắc này lại có hai dạng: huyết thống tuyệt đối và huyết thống tương đối.
+ Nguyên tắc huyết thống tuyệt đối: Là nguyên tắc theo đó được áp dụng cho trường hợp cha và mẹ có cùng quốc tịch. Theo nguyên tắc này thì đứa trẻ sinh ra sẽ có quốc tịch theo cha mẹ, bất kể được sinh ra ở đâu. Cụ thể, tại điều 15 Luật Quốc tịch năm 2008 của Việt Nam quy định: “Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam.”
+Nguyên tắc huyết thống tương đối: là nguyên tắc được áp dụng trong trường hợp chỉ cần cha hoặc mẹ mang quốc tịch của một nước thì đứa trẻ sẽ được mang quốc tịch của nước mà người cha hoặc người mẹ đó đang mang. Trong trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ có quốc tịch, còn người kia không rõ hay không có quốc tịch thì đứa trẻ vẫn được mang quốc tịch của cha hoặc mẹ. Nguyên tắc này được quy định tại điều 16 Luật Quốc tịch năm 2008:
“1. Trẻ em được sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.
2. Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con.
Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam.”
-         Nguyên tắc quyền nơi sinh: Trẻ được sinh ra ở lãnh thổ quốc gia nào sẽ mang quốc tịch quốc gia đó mà không phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ.
è Áp dụng phổ biến ở các quốc gia châu Mĩ như Braxin, Chile.
Theo Điều 17 Luật Quốc tịch năm 2008 của Việt Nam thì nguyên tắc nơi sinh chỉ áp dụng trong các trường hợp sau:
“1. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam.
2. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.”
Theo đó, tinh thần của Khoản 1 Điều 17 là cả cha và mẹ đều là người không quốc tịch, chỉ cần một trong hai người thường trú tại Việt Nam thì trẻ sẽ mang quốc tịch Việt Nam. Trường hợp cha mẹ là công dân nước ngoài, thường trú tại Việt Nam; sinh con tại Việt Nam hay cha hoặc mẹ là công dân nước ngoài, người còn lại không quốc tịch, thường trú ở Việt Nam thì đứa trẻ sinh ra có mang quốc tịch Việt Nam hay không. Điều này luật không quy định.
Cùng với đó, tại điều 18 Luật Quốc tịch năm 2008 còn quy định:
“1.Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam…”
Điều này là để đảm bảo với tinh thần của Luật Quốc tịch Việt Nam. Đó là “mọi thành viên dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam” (Khoản 2 Điều 2 Luật quốc tịch).
-         Nghiên cứu nguyên tắc hưởng quốc tịch theo quyền truyền thống và nguyên tắc hưởng quốc tịch theo quyền nơi sinh, chúng ta có thể rút ra một vài ưu điểm và hạn chế:

Nguyên tắc quyền huyết thống
Nguyên tắc lãnh thổ
Ưu
Hạn chế được tình trạng người nhiều quốc tịch
Hạn chế được tình trạng người không quốc tịch
Nhược
Phát sinh tình trạng người không quốc tịch
Phát sinh tình trạng người nhiều quốc tịch.

è Xuất phát từ những ưu, nhược điểm đó mà hiện này nhiều nước đã kết hợp cả hai nguyên tắc: nguyên tắc quyền huyết thống và nguyên tắc lãnh thổ để xác định quốc tịch cho trẻ em; như Việt Nam (Điều 15 LQTịch), Mỹ, Ấn Độ, Ba Lan…. Phương thức xác lập quốc tịch này còn gọi là xác lập quốc tịch theo “Nguyên tắc hỗn hợp”. Đảm bảo mọi đứa trẻ sinh ra đều có quốc tịch và hạn chế được tình trạng người nhiều quốc tịch.
-         Nguyên tắc quốc tịch hỗn hợp: Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã kết hợp cả 2 nguyên tắc Quyền huyết thống và Quyền nơi sinh quy định ở điều 15, 16, 17, 18
b.      Hưởng quốc tịch do sự gia nhập
-         Thực tiễn, hưởng quốc tịch do sự gia nhập có ba trường hợp:
+ Xin gia nhập quốc tịch (Điều 19 Luật quốc tịch Việt Nam).
Nhập quốc tịch là hành vi pháp lý của một cá nhân bày tỏ nguyện vọng trở thành công dân của một quốc gia nhất định. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định trong Luật quốc tịch của mình những điều kiện chung nhất để một cá nhân có thể được xem xét cho nhập quốc tịch của quốc gia mình:
ü  Về độ tuổi: quy định xin nhập quốc tịch phải là người từ 18 tuổi trở lên.
ü  Về năng lực hành vi dân sự: phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
ü  Về trình độ ngôn ngữ: phải biết ngôn ngữ của quốc gia xin gia nhập.
ü  Về điều kiên sinh sống: phải có tài sản, công việc làm việc để có nguồn thu nhập hợp pháp.
ü  Về thời gian cư trú: phải có thời gian cư trú liên tục tại quóc gia đó.
ü  Về quan điểm chính trị: người xin nhập quốc tịch không phải là người có quan điểm chính trị chống lại quốc gia mà người đó xin nhập quốc tịch.
+ Hưởng quốc tịch do kết hôn (Điều 10 Luật quốc tịch Việt Nam).
ü  Pháp luật về quóc tịch của các quốc gia đều có những quy định cụ thể, theo đó người phụ nữ kết hôn với người nước ngoài sẽ được nhà nước nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi nhất để có thể được nhập quốc tịch của người chồng
ü  Luật quốc tịch ở hầu hết các nước trên thế giới quy định, việc kết hôn của người phụ nữ không làm thay đổi quốc tịch của họ (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản…).
+ Hưởng quốc tịch do làm con nuôi ( Điều 37 Luật quốc tịch Việt Nam):
ü  Luật quốc tịch ở hầu hết các quốc gia thế giới quy định, con nuôi của công dân mình sẽ được mang quốc tịch theo quốc tịch của bố mẹ nuôi.
ü  Ở Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền quyết định cho người nước ngoài và người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam được quốc tịch Việt Nam.
c.      Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn quốc tịch
-         Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn tịch là quyền của công dân được lựa chọn cho mình một quốc tịch (hoặc giữ quốc tịch cũ hoặc nhận quốc tịch mới). Việc lựa chọn quốc tịch cần phải được tiến hành trên cơ sở tự nguyện của công dân. Luật quốc tịch các nước đều có quy định việc lựa chọn quốc tịch của công dân khi họ có nhiều quốc tịch.
-         Lựa chọn quốc tịch xảy ra trong các trường hợp:
+ Có sự chuyển dịch lãnh thổ
+ Có sự trao đổi dân cư
+Một người có nhiều quốc tịch
d.      Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch
-         Phục hồi quốc tịch là việc một người được khôi phục lại quốc tịch cũ vì lý do nào đó đã mất quốc tịch .
-         Phục hồi quốc tịch thường xảy ra trong các trường hợp:
+ Đã thôi quốc tịch cũ để sinh sống ở nước ngoài nay trở về tổ quốc.
+ Đối với những người đã mất quốc tịch của mình do kết hôn với người nước ngoài nay ly hôn và muốn trở lai quóc tịch cũ.
+ Hoặc trước đó được người nước ngoài nhận làm con nuôi và đã có quốc tịch theo quốc tịch của cha mẹ nuôi nay muốn trở lai quốc tịch ban đầu.
-         Ngoài ra, còn có hưởng quốc tịch do thưởng quốc tịch: Thưởng quốc tịch là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của  quốc gia công nhận người nước ngoài có công lao to lớn với nướ mình, với cộng đồng nhân loại là công dân nước mình.
III.            Mất quốc tịch
-         Thực tiễn pháp lý quốc tế, việc mất quốc tịch của công dân thường xảy ra trong các trường hợp:
+ Thôi quốc tịch: Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân chấm dứt do nguyện vọng cá nhân của công dân đó vì lý do muốn thôi quốc tịch nước này để nhập quốc tịch nước khác.
+ Tước quốc tịch: là biện pháp trừng phạt áp dụng đối với công dân khi công dân đã thực hiện những hành vi phương hại đến độc lập dân tộc, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, lợi ích danh dự, uy tín của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Đối tượng bị tước quốc tịch:
ü  Những người có quốc tịch gốc nhưng thường trú ở nước ngoài có hành vi vi phạm nghiêm trọng về chính trị hoặc có thái độ chính trị xấu đới với nhà nước mà họ mang quốc tịch.
ü  Những người đã được nhập tịch nhưng có hành vi gian lận trong viêc xin nhập tịch hoặc phạm tội theo quy định của pháp luật nước mà họ đã được nhập tịch. ( Điều 31, 32 LQT VN 2005).
+ Đương nhiên mất quốc tịch: là tình trạng pháp lý của một người rơi vào các trường hợp đã được luật dự liệu sẽ tự động mất quốc tịch mà họ đang mang.
 IV.            Vấn đề nhiều quốc tịch và không quốc tịch
1.      Nhiều quốc tịch
-          Người nhiều quốc tịch là hiện tượng pháp lý không bình thường của một người cùng một lúc có tư cách công dân của nhiều quốc gia.
-         Nguyên nhân:
+ Có sự xung đột pháp luật của các nước về cách thức thưởng quốc tịch và mất quốc tịch.
+ Khi một người chuyển từ quốc tịch nước này sang quốc tịch nước khác đã nhận quốc tịch mới nhưng chưa thôi quốc tịch cũ.
+ Do hưởng quốc tịch mới từ việc kết hôn với người nước ngoài hoặc được nhận làm con nuôi người nước ngoài.
-         Cách giải quyết: kí kết các điều ước quốc tế.
2.      Không quốc tịch
-          Không quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người không có tư cách công dân của bất kỳ quốc gia nào.
-         Nguyên nhân:
+ Một người mất quốc tịch cũ mà chưa nhập quốc tịch mới;
+ Có sự xung đột pháp luật của các nước về vấn đề hưởng quốc tịch.
+ Cha mẹ là ngươi không quốc tịch sinh ra con ở nước xác định quốc tịch theo nguyên tắc huyết thống thì đứa trẻ cũng không có quốc tịch.
-         Hướng giải quyết:
+ Kí kết các điều ước quốc tế;
+ Ban hành các văn bản pháp luật quốc gia.



 
 
Blogger Templates