Một cộng một bằng ba: phương trình
này là động lực đặc biệt cho một thương vụ mua bán và sáp nhập. Nguyên tắc then
chốt đằng sau việc mua một công ty là nhằm tăng giá trị lớn hơn nhiều lần cho
cổ đông chứ không chỉ là tổng của hai công ty. Nói cách khác, hai công ty Sáp
nhập cùng nhau sẽ có giá trị lớn hơn hai công ty riêng lẻ - và ít nhất nó cũng
là lý do đằng sau mua bán và sáp nhập.
Nguyên lý này đặc biệt hữu ích
khi các công ty rơi vào những thời kỳ khó khăn do cạnh tranh, thị trường hay
bất kỳ yếu tố nào. Những công ty lớn sẽ mua lại các công ty khác nhằm tạo nên
một công ty mới có sức cạnh tranh hơn và giảm thiểu chi phí. Các công ty sau
khi M&A sẽ có cơ hội mở rộng thị phần lớn hơn và đạt được hiệu quả kinh
doanh tốt hơn. Những công ty nhỏ là đối tượng bị mua cũng sẵn sàng để công ty
khác mua vì như vậy sẽ tốt hơn nhiều là bị phá sản hoặc rất khó khăn tồn tại
trên thị trường.
1. Sự khác nhau giữa Mua bán và Sáp nhập
Mặc dù mua bán và sáp nhập thường được đề cập cùng nhau với
thuật ngữ quốc tế phổ biến là “M&A” nhưng hai thuật ngữ mua bán và Sáp nhập
vẫn có sự khác biệt về bản chất.
Khi một công ty mua lại (tiếp quản) một công ty khác và đặt
mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì thương vụ đó được gọi là mua bán. Dưới khía
cạnh pháp lý, công ty bị mua lại không còn tồn tại, bên mua đã “nuốt chửng” bên
bán và cổ phiếu của bên mua không bị ảnh hưởng.
Theo nghĩa đen thì sáp nhập diễn ra khi hai doanh nghiệp,
thường có cùng quy mô, đồng thuận gộp lại thành một công ty mới thay vì hoạt
động và sở hữu riêng lẻ. Loại hình này thường được gọi là “Sáp nhập ngang
bằng”. Cổ phiếu của cả hai công ty sẽ ngừng giao dịch và cổ phiếu của công ty
mới sẽ được phát hành. Trường hợp Daimler-Benz và Chrysler là một ví dụ về sáp
nhập: hai hãng Sáp nhập và một công ty mới (pháp nhân mới) ra đời mang tên
DaimlerChrysler.
Tuy nhiên trên thực tế hình thức sáp nhập ngang bằng không
diễn ra thường xuyên do nhiều lý do. Một trong những lý do chính là việc truyền
tải thông tin ra công chúng cần có lợi cho cả công ty bị mua và công ty mới sau
khi sáp nhập. Thông thường, một công ty mua một công ty khác và trong thỏa
thuận đàm phán sẽ cho phép công ty bị mua tuyên bố với bên ngoài rằng hoạt động
này là sáp nhập ngang bằng cho dù về bản chất là hoạt động mua bán.
Một thương vụ mua bán cũng có thể được gọi là sáp nhập khi
cả hai bên đồng thuận liên kết cùng nhau vì lợi ích cho cả hai công ty. Nhưng
khi bên bị mua không không muốn bị thâu tóm thì sẽ được coi là một thương vụ
mua bán. Một thương vụ được coi là mua bán hay sáp nhập hoàn toàn phụ thuộc vào
việc nó được diễn ra một cách thân thiện giữa hai bên hay hay bị ép buộc thâu
tóm nhau. Mặt khác, ns còn là cách truyền tải thông tin ra bên ngoài cũng như
sự nhìn nhận của ban giám đốc, nhân viên và cổ đông của công ty.
2. Cộng hưởng trong M&A
Cộng hưởng là động cơ quan trọng và kì diệu nhất giải thích
cho mọi thương vụ mua bán sáp nhập. Cộng hưởng sẽ cho phép hiệu quả và giá trị
của doanh nghiệp mới (sau khi sáp nhập) được nâng cao. Lợi ích mà các doanh
nghiệp kỳ vọng sau mỗi thương vụ M&A bao gồm:
- Giảm nhân viên: nói chung sáp nhập doanh nghiệp
thường có khuynh hướng giảm việc làm. Hai hệ thống sáp nhập lại sẽ làm giảm
nhiều công việc gián tiếp, ví dụ các công việc văn phòng, tài chính kế toán hay
marketing… Việc giảm thiểu vị trí công việc cũng đồng thời với đòi hỏi tăng
năng suất lao động. Đây cũng là dịp tốt để các doanh nghiệp sa thải những vị
trí làm việc kém hiệu quả.
- Đạt được hiệu quả dựa vào quy mô: Một doanh nghiệp
lớn lúc nào cũng có thế hơn khi giao dịch với các đối tác, kể cả mua văn phòng
phẩm hay một hệ thống IT phức tạp thì công ty lớn vẫn có ưu thế khi đàm phán
hơn là so với công ty nhỏ. Mặt khác, quy mô lớn cũng giúp giảm thiểu chi phí
- Trang bị công nghệ mới: Để duy trì cạnh tranh, các
công ty luôn cần vị trí đỉnh cao của phát triển kỹ thuật và công nghệ. Thông
qua việc mua bán hoặc sáp nhập, công ty mới có thể tận dụng công nghệ của nhau
để tạo lợi thế cạnh tranh.
- Tăng cường thị phần và danh tiếng trong ngành: Một
trong những mục tiêu của mua bán & sáp nhập là nhằm mở rộng thị trường mới,
tăng trưởng doanh thu và thu nhập. Sáp nhập cho phép mở rộng các kênh marketing
và hệ thống phân phối. Bên cạnh đó, vị thế của công ty mới sau khi sáp nhập sẽ
tăng lên trong mắt cộng đồng đầu tư: công ty lớn hơn có lợi thế hơn và có khả
năng tăng vốn dễ dàng hơn một công ty nhỏ.
Trên thực tế, đạt được sự cộng hưởng thường khó hơn người ta
tưởng - nó không tự đến khi hai công ty sáp nhập. Đương nhiên khi hai công ty
sáp nhập dễ nhìn thấy khả năng đạt được lợi thế quy mô nhưng đôi khi nó lại có
hiệu ứng ngược lại. Trong nhiều trường hợp, một cộng một lại nhỏ hơn hai. Do
đó, việc phân tích chính xác mức độ cộng hưởng trước khi tiến hành những thương
vụ M&A rất quan trọng. Khá nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đã cố tình vẽ ra
bức tranh cộng hưởng để tiến hành các vụ M&A nhằm trục lợi từ việc định giá
doanh nghiệp.
3. Một số hình thức Sáp nhập
Dựa vào cấu trúc của từng doanh nghiệp, có khá nhiều hình
thức sáp nhập khác nhau. Dưới đây là một số loại hình được phân biệt dựa vào
mối quan hệ giữa hai công ty tiến hành sáp nhập:
- Sáp nhập cùng ngành (hay còn gọi là sáp nhập chiều
ngang): Diễn ra đối với hai công ty cùng cạnh tranh trực tiếp và chia sẻ cùng
dòng sản phẩm và thị trường.
- Sáp nhập dọc: Diễn ra đối với các doanh nghiệp trong
chuỗi cung ứng, ví dụ giữa một công ty với khách hàng hoặc nhà cung cấp của
công ty đó. Chẳng hạn như nhà cung cấp ốc quế sáp nhập với một đơn vị sản xuất
kem.
- Sáp nhập mở rộng thị trường: Diễn ra đối với hai công
ty bán cùng loại sản phẩm nhưng ở những thị trường khác nhau.
- Sáp nhập mở rộng sản phẩm: Diễn ra đối với hai công
ty bán những sản phẩm khác nhau nhưng có liên quan tới nhau trong cùng một thị
trường.
- Sáp nhập kiểu tập đoàn: Trong trường hợp này, hai
công ty không có cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động lĩnh
vực kinh doanh đa ngành nghề.
Có hai hình thức sáp nhập được phân biệt dựa trên cách thức
cơ cấu tài chính. Mỗi hình thức có những tác động nhất định tới công ty và nhà
đầu tư:
- Sáp nhập mua: Như chính cái tên này thể hiện, loại
hình sáp nhập này xảy ra khi một công ty mua lại một công ty khác. Việc mua
công ty được tiến hành bằng tiền mặt hoặc thông qua một số công cụ tài chính.
- Sáp nhập hợp nhất: với hình thức sáp nhập này, một
thương hiệu công ty mới được hình thành và cả hai công ty được hợp nhất dưới
một pháp nhân mới. Tài chính của hai công ty sẽ được hợp nhất trong công ty
mới.
4. Mua bán
Chúng ta có thể thấy hoạt động mua bán chỉ khác đôi chút so
với hình thức sáp nhập. Trên thực tế, nó có thể chỉ khác về mặt thuật ngữ.
Giống như sáp nhập, mua bán cũng nhằm mục đích đạt được lợi thế quy mô, tăng
hiệu quả và thị phần. Không giống như tất cả các loại hình sáp nhập, mua bán
liên quan đến một công ty mua lại một công ty khác chứ không phải hợp nhất để
tạo thành công ty mới. Mua bán luôn diễn ra tốt đẹp nếu quan hệ hai bên là ăn ý
nhau và cảm thây thỏa mãn với thương vụ đó. Tuy nhiên, cũng có thể mua bán được
diễn ra một cách hằn học - khi mà hai đối thủ dùng tiềm lực tài chính để thâu
tóm nhau nhằm triệt tiêu sự cạnh tranh.
Trong mua bán, giống như đối với một số giao dịch sáp nhập
đã đề cập ở trên, một công ty có thể mua lại một công ty khác bằng tiền mặt, cổ
phiếu hay kết hợp cả hai loại trên. Một hình thức khác phổ biến trong những
thương vụ mua bán nhỏ hơn là mua tất cả tài sản của công ty bị mua. Công ty X
mua tất cả tài sản của công ty Y bằng tiền mặt đồng nghĩa với việc công ty Y
chỉ còn lại tiền mặt (và nợ, nếu như có nợ trước đó). Đương nhiên, công ty Y
chỉ là vỏ bên ngoài và cuối cùng sẽ thanh lý hoặc phải nhảy vào một lĩnh vực
kinh doanh khác.
Một loại hình mua bán khác là sáp nhập ngược, diễn ra khi
một một công ty tư nhân mua lại một doanh nghiệp đã niêm yết trên sàn trong một
thời gian tương đối ngắn. Thông thường khi khi một công ty tư nhân có triển
vọng lớn và muốn tăng vốn sẽ mua một công ty đã niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán và biến mình thành một công ty đại chúng và được phát hành cổ
phiếu.
Nói chung, mục tiêu cuối cùng của tất cả các thương vụ mua
bán sáp nhập là tạo ra sự cộng hưởng và nâng cao giá trị lớn hơn nhiều so với
giá trị của từng bên riêng lẻ. Thành công của mua bán hay sáp nhập phụ thuộc
vào việc có đạt được sự cộng hưởng hay không.
5. Vấn đề định giá trong M&A
Các nhà đầu tư của một công ty khi muốn một công ty khác
luôn đặt câu hỏi mua với mức giá bao nhiêu thì có lợi nhất? Do vậy việc định
giá một công ty để quyết định mua là một khâu quan trọng trong quá trình mua
bán sáp nhập doanh nghiệp. Thông thường, cả hai bên trong thương vụ mua bán hay
sáp nhập đều có cách đánh giá khác nhau về giá trị công ty bị mua: bên bán có
khuynh hướng định giá công ty của mình ở mức cao nhất có thể trong khi bên mua
sẽ cố gắng trả giá thấp nhất trong khả năng. Để đưa ra một mức giá công bằng và
được chấp nhận bởi cả hai bên, người ta đã đưa ra nhiều phương pháp phù hợp để
định giá các công ty. Phương thức phổ biến nhất là nhìn vào các công ty có thể
so sánh được trong cùng một ngành, tuy nhiên các nhà môi giới thường sử dụng
nhiều công cụ khác nhau khi định giá công ty. Dưới đây giới thiệu một số phương
pháp định giá:
- Tỷ suất P/E: Bên mua có thể so sánh mức P/E trung
bình của cổ phiếu trong ngành để xác định mức chào mua một cách hợp lý;
- Tỷ suất Giá trị doanh nghiệp trên Doanh thu
(EV/Sales): Với chỉ số này, bên mua so sánh chỉ số này với các doanh nghiệp
khác trong ngành và sẽ chào giá ở một mức gấp một cơ số lần doanh thu;
- Chi phí thay thế: Trong một số trường hợp, mua bán
được dựa trên việc cân nhắc yếu tố chi phí để thiết lập một công ty từ đầu so
với mua một công ty đang có sẵn. Chẳng hạn, nếu tính một cách đơn giản giá trị
công ty bao gồm toàn bộ tài sản cố định, trang thiết bị và đội ngũ nhân viên.
Về lý thuyết, công ty đi mua có thể đàm phán mua lại công ty đang tồn tại với
giá trị kể trên hoặc là thiết lập một công ty mới tương tự để cạnh tranh. Rõ
ràng, để xây dựng một công ty mới sẽ mất một khoảng thời gian dài để tập hợp
đội ngũ quản lý & nhân sự tốt, mua sắm tài sản và tìm kiếm khách hàng chưa
kể việc ra đời phải cạnh tranh với công ty đang tồn tại trên thị trường. Tuy
nhiên phương pháp này cũng khó đối với các ngành dịch vụ, nơi mà tài sản quan
trọng nhất là con người và phương thức dựa trên ý tưởng là chính.
- Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF): Đây là một
công cụ định giá quan trong trong mua bán và sáp nhập. Mục đích của DCF là xác
định giá trị hiện tại của công ty dựa trên ước tính dòng tiền mặt trong tương
lai. Dòng tiền mặt ước tính (được tính bằng công thức “Lợi nhuận + khấu hao -
chi phí vốn - thay đổi vốn lưu thông”) được chiết khấu đến giá trị hiên tại có
tính đến trọng số trung bình vốn của công ty (WACC). Tất nhiên DCF cũng có
những hạn chế nhất định nhưng rất ít có công cụ nào có thể cạnh tranh được với
phương thức định giá này về mặt phương pháp luận.
(TGI)