Vấn đề pháp lý:
Trong tranh chấp hợp đồng xây
dựng, nếu các bên chưa nghiệm thu công trình, chưa thanh lý hợp đồng nhưng
trong quá trình giải quyết vụ án các bên đều có ý kiến đồng ý căn cứ vào khối lượng
được thể hiện trong Biên bản nghiệm thu hạng mục công trình hoặc toàn bộ công
trình để làm cơ sở thanh toán thì vẫn được Tòa án chấp nhận.
Nội dung vụ án:
Ngày 25/3/2005, ông Hồ Bá Truyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty
Chúc Phương thanh toán các khoản tiền còn thiếu theo thỏa thuận trong hợp đồng
số 01/07/HĐKT về việc san lấp mặt bằng công trình mà hai bên đã ký kết.
Ông Truyền trình bày: ngày 10/7/2004, ông Truyền và Công ty Chúc Phương
ký Hợp đồng kinh tế số 01/07/HĐKT với các nội dung chính như sau: Công ty Chúc
Phương thuê ông Truyền san lấp (gồm: bơm cát, đắp đê bao, đóng cừ tràm, gia cố
hai đầu kinh) mặt bằng công trình Khu dân cư chùa Bà Hai – thị trấn Lấp Vò,
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp; khối lượng san lấp cát (khối lượng chặt) theo dự
toán được các cấp có thẩm quyền phê duyệt; đơn giá 10.800 đồng/m3;
thời gian thi công đắp bao 90 ngày; khối lượng dùng làm cơ sở thanh toán là
khối lượng được các cấp có thẩm quyền phê duyệt trong hồ sơ dự toán (khối lượng
trên mặt bằng công trình).
Theo chủ đầu tư xác nhận ngày 25/3/2005 thì khối lượng thi công thực tế
là 86.886m3 cát (đã
trừ khối lượng giảm do hạ cao độ (0,13m) là 7921m3, khối lượng không
thi công là 319m3). Ông Truyền yêu cầu Công ty Chúc Phương thanh
toán theo khối lượng 86.886m3, với đơn giá 10.800 đồng/m3 và tính hệ số đầm nén (1,22) theo quy
định; tiền lãi do chậm thanh toán; trừ 410.000.000 đồng đã nhận.
Đại diện bị đơn trình bày: Công ty Chúc Phương nhận thầu lại hạng mục
của nhà thầu thi công (Công ty xây dựng 621 – QK9). Ông Hồ Bá Truyền bơm cát
đến ngày 15/12/2004 còn thiếu 11.779 m3 so với thiết kế. Khối lượng nghiệm thu
86.886m3 cát phải trừ
lại 10.965m3 của Doanh
nghiệp tư nhân Mai Thị Chanh do nhà thầu thuê (Hợp đồng không số ngày
30/12/2004) vì ông Truyền bơm cát không đủ khối lượng. Công ty Chúc Phương
không chấp nhận hệ số đầm nén (1,22) vì đã có trong đơn giá; không đồng ý thanh
toán tiền lãi chậm trả. Ngoài ra, Công ty Chúc Phương yêu cầu được khấu trừ
120.000.000 đồng chi phí đắp đê bao, đóng cừ tràm, gia cố hai đầu kinh do ông
Truyền không làm; 20.000.000 đồng thuê xe san ủi mặt bằng; 66.700.000 đồng trả
cho ông Phan Tấn Lợi; 54.197.500 đồng tiền vận chuyển 95 chuyến cát cho ông
Truyền.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2006/KDTM-ST ngày
07/3/2006, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang công nhận hợp đồng số 01/07/HĐKT và
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đương sự có kháng cáo. Tại
bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 53/2006/KDTM-PT ngày 23/6/2006, Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định hủy bản
án sơ thẩm, giao xét xử lại.
Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 17/2007/KDTM-ST ngày
18/4/2007, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang quyết định công nhận hợp đồng số
01/07/HĐKT và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty Chúc Phương. Tại
bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 78/2007/KDTM-PT ngày 13/8/2007, Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định quyết
định không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của ông Hồ Bá Truyền và chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Chúc
Phương, sửa một phần bản án sơ thẩm. Bản án này bị Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao kháng nghị.
Tại phiên họp ngày 14/12/2009, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm để xét xử vụ án và quyết định hủy Bản án kinh
doanh, thương mại phúc thẩm số 78/2007/KDTM-PT ngày 13/8/2007 của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương
mại sơ thẩm số 17/2007/KDTM-ST ngày 18/4/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật. Quyết định của hội đồng Giám đốc thẩm có một
số vấn đề pháp lý như sau:
- Ông Truyền và Công ty Chúc Phương chưa nghiệm thu công trình, chưa
thanh lý hợp đồng, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án cả hai bên đều đồng ý
căn cứ vào khối lượng được thể hiện trong Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng
mục công trình hoặc công trình để làm cơ sở thanh toán. Tòa án các cấp sơ thẩm
và phúc thẩm chấp nhận đề nghị trên của các đương sự là có căn cứ.
- Tòa án các cấp phúc thẩm và sơ thẩm xác định ông Truyền chỉ được thanh
toán theo khối lượng 75.921 m3 là
đúng. Về việc ông Truyền nhận khoản tiền 66.700.000 đồng của Công ty Chúc
Phương cần phải được xem xét do lời khai giữa bà Phương và ông Truyền không
thống nhất; giấy ủy quyền của ông Truyền cho ông Lợi nhận tiền từ bà Phương
không có bản chính.
- Có căn cứ để xem xét khiếu nại của ông Truyền về việc bà Phương cung
cấp tài liệu giả. Các tài liệu trong hồ sơ vụ án có sự mâu thuẫn về thời gian
các bên ký kết hợp đồng và thời gian thực hiện hợp đồng. Ngày 12/6/2004 đội xe
máy Công ty Xây dựng 621 đã ký Hợp đồng thuê Công ty Chúc Phương san lấp cát
tại mặt bằng công trình nhưng ba tháng sau tức vào ngày 16/9/2004 thì Ban quản
lý dự án huyện Lấp Vò ký Hợp đồng giao cho Công ty Xây dựng 621 tổ chức thi
công công trình này. Ngày 10/7/2004 Công ty TNHH Chúc Phương ký Hợp đồng thuê
ông Truyền san lấp mặt bằng công trình nhưng theo ông Truyền khai và được chính
quyền địa phương xác nhận, thì ông đã tiến hành bơm cát, san lấp mặt bằng kể từ
ngày 12/6/2004./.
Lg. Võ Văn Tú